Bốn kỹ năng dạy trẻ làm người từ khi học mầm non
09.10.2017 09:24
Trong khi dạy kiến thức là nhiệm vụ chính của ngành giáo dục thì dạy làm người không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành giáo dục mà là của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị.
Việc dạy kiến thức,
tuy còn đôi điều cần bàn luận, dù sao cũng đã đã đáp ứng phần nào yêu cầu trang
bị tri thức cho thế hệ trẻ thì chuyện dạy làm người lại là “thất bại toàn diện”
không phải chỉ của giáo dục mà là của toàn hệ thống. Nói đến chuyện dạy người, những người lớn tuổi thường vận dụng câu: “tiên học
lễ, hậu học văn”, cũng từ đây nảy sinh những tranh luận gay gắt về “lễ”, “văn”
thời hiện đại. Thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay thiếu những gì và nền giáo dục,
theo tinh thần đổi mới toàn diện cần tập trung dạy cái gì, dạy từ lứa tuổi nào?
Người viết cho rằng cần dạy bắt đầu từ trẻ mẫu giáo-mầm non bốn kỹ năng cơ bản
sau đây:
1. Kỹ năng làm việc theo nhóm
Kỹ năng này gọi theo
cách nguyên thủy là hợp tác bầy đàn. Hợp tác bầy đàn vừa dùng để săn mồi, cũng
lại được dùng để chống lại kẻ săn mồi. Đứng trước một bầy đàn đông đúc, kẻ săn
mồi rất khó lựa chọn đối tượng cuộc săn, chúng thường lựa chọn những con mồi
đứng riêng lẻ. Trong thế giới động vật điển hình cho việc hợp tác bầy đàn là cá
heo. Khi phát hiện đàn cá chích bầy cá heo sẽ bơi thành vòng tròn xung quanh và
liên tục xả các bong bóng khí, một khi cả đàn đã tạo được lồng bong bóng bao
quang đàn cá chích thì khả năng chạy thoát của con mồi là gần như không có.Kỹ năng làm việc theo
nhóm càng quan trọng khi loài người bước vào nền kinh tế tri thức. Người Việt
có chỉ số thông minh cao, điều này đã được thế giới công nhận. Nguyên thủ tướng
Singapore, ông Lý Quang Diệu trong cuốn 'One man’s View of the World' nhận
định: “người Việt là một trong những dân tộc năng động và thông minh nhất trong
khu vực Đông Nam Á. Sinh viên Việt Nam thường xuyên giành được những điểm số
cao nhất trong cách kỳ thi tầm cỡ quốc tế.
Trái ngược với tính
thông minh, kỹ năng xử lý tình huống của người Việt lại rất hạn chế, mang nặng
tâm lý tiểu nông, chỉ biết riêng mình. Dường như thỏa mãn nhu cầu cá nhân quan
trọng hơn lợi ích tập thể. Người ta sẵn sàng “hy sinh đời bố, củng cố đời con”
chứ không phải là vì quốc gia đại sự. Tâm lý ấy có thể thấy khắp nơi từ chuyện
xuất khẩu gạo, thủy, hải sản đến chuyện nhập rác thải công nghiệp về kiếm lời. Có phải người Việt có một tập tính trải qua hàng nghìn năm đã trở thành di
truyền chăng? Muốn bảo vệ lãnh thổ, muốn chống ngoại xâm, muốn duy trì nòi
giống trước hết phải “sống” đã. Hễ có ngoại xâm là đoàn kết đánh giặc, đánh
thắng rồi phải tranh thủ “sống”? Dần dà mệnh đề “phải sống” lấn át tất cả, sống
cho mình và sẵn sàng chà đạp sự sống của người khác? Cách sống ấy càng ngày
càng ăn sâu vào nhận thức của thanh niên, đặc biệt là sinh viên. Bước chân vào
giảng đường đại học, chỉ một thời gian ngắn sau là bắt đầu tiến trình “ghép đôi”,
tiến trình sống đơn lẻ, tranh thủ tận dụng từng mớ rau, củ khoai của cha mẹ, ý
thức cộng đồng, sinh hoạt theo nhóm gần như không tồn tại với các cặp đôi này.
Làm việc theo nhóm bao
giờ cũng cần người điều phối, người lãnh đạo. Sự lầm tưởng về dân chủ, bình
đẳng khiến cho không ít thanh niên cho rằng tất cả mọi người đều như nhau,
không thể có chuyện bị người khác “sai bảo”. Người lãnh đạo, đó phải là “con đầu đàn” đủ sức mạnh và trí tuệ chỉ huy cả
nhóm. Đó phải là người được cả nhóm xuy tôn chứ không do áp đặt từ trên xuống.
Một chuyện vui kể rằng có người bán chim cảnh, treo các lồng chim thành ba
tầng, tầng trên cùng chỉ có một con, tầng giữa nhiều hơn và tầng dưới cùng
nhiều nhất. Khách mua chim hỏi giá thì được trả lời chim tầng dưới cùng năm trăm
nghìn một con. Khách hỏi tại sao đắt thế thì được trả lời, “vì chim biết nói
tiếng Việt”. Chim treo tầng giữa giá một triệu vì biết nói tiếng Anh, chim tầng
trên cùng giá ba triệu. Khách thắc mắc giá cao thế chắc vì chim tầng trên cùng
biết cả hai thứ tiếng, chủ trả lời: “chim tầng cao nhất không biết một thứ
tiếng nào cả”. Hỏi tại sao lại đắt nhất thì được trả lời “chim tầng cao nhất là
sếp của các chim tầng dưới“!
Kỹ năng làm việc theo
nhóm cần được giáo dục ngay từ khi trẻ còn học mẫu giáo, điều này chưa được chú
ý đúng mức. Tất cả nhà trẻ mẫu giáo chỉ được trang bị các trò chơi như cầu
trượt, đu quay, cầu bập bênh, rất khó bố trí chơi theo nhóm. Cần hình thành các
trò chơi sao cho giáo viên có thể chia các cháu thành nhóm, tạo sự đoàn kết và
thi đua giữa các nhóm. Hình thức thi thể dục nhịp điệu của học sinh phổ thông ở
Mỹ là một cách dạy làm việc theo nhóm rất hiệu quả. Nếu để ý kỹ sẽ thấy các vũ
công múa nước ta dù ở những đơn vị chuyên nghiệp cũng chẳng bao giờ múa đều như
nước ngoài, tay chân vung lên thế nào cũng có người lệch lạc.
2. Kỹ năng cảm nhận
Một nhận xét thật chua
chát, rằng giới trẻ hiện nay “chỉ cảm nhận được cái đẹp của mì tôm” đã nói lên
phần nào thực trạng mà giáo dục mang lại cho thanh thiếu niên. Nhiều người đang
sống hoàn toàn vô cảm trước thực trạng xã hội, trước những nét đẹp cần được tôn
vinh. Khả năng cảm nhận cái thiện - cái ác, cái đẹp - cái xấu gần như không có
khiến cho nhiều học sinh sẵn sàng lột quần áo cấu xé nhau giữa chốn đông người. Khả năng cảm nhận kém dễ dẫn tới hành đông a dua, học mót. Dạy cho trẻ càm nhận
được vẻ đẹp tiềm ẩn trong một bức tranh, một câu thơ lại là vấn đề trình độ
thầy cô giáo. Với ba, bốn năm học sư phạm, họ không được trang bị những kiến
văn hóa, xã hội cần thiết. Người viết đã từng trao đổi với một nhóm chừng hai
mươi giáo viên PTCS về câu cao dao: “gió đưa hoa cải về giời, rau răm ở lại
chịu nhời đắng cay”, một số có nhận xét đọc câu ca dao này thấy có một cái gì
đó buồn buồn nhưng không một ai giải thích được những gì ẩn chứa sau câu ca dao
đó.
Hoa cải, một thứ hoa
tầm thường không bao giờ được dùng để cắm lọ chứ đừng nói dâng lên bàn thờ tổ
tiên, loại hoa đó lại được đưa về nơi cao quý (về giời). Rau răm vốn là một
loại rau được dùng nhiều ở chùa vì có tác dụng “diệt dục”, kiềm chế sự ham
muốn. Rau răm là biểu hiện của sự đè nén, cay đằng thì ở lại nhân gian, gắn bó
với cuộc đời người nông dân. Đó là thực trạng xã hội ngày xưa mà người dân
không được quyền nói thẳng, nói thật nên đã phải nói một cách ẩn dụ. Ở tuổi mẫu giáo không thể bắt các cháu cảm nhận những gì trừu tượng, nhưng chỉ
cần với ba bông hoa hồng ba màu trắng, đỏ, vàng là đã có thể để các cháu nêu
quan điểm yêu thích của mình. Những năm cuối THCS và sang THPT khi trí tuệ và
thể chất phát triển hãy yêu cầu mức cảm nhận cao hơn như bình luận cái hay, cái
đẹp của câu thơ, bức ảnh, bài văn hay một sự kiện…
3. Kỹ năng tự lập (kỹ năng sống đơn lẻ) Một số người ngại đề cập đến kỹ năng này vì sợ sẽ khuyến khích thói ích kỷ,
tham lam của người học. Lo ngại như vậy là có cơ sở song không vì thế mà không
giáo dục trẻ kỹ năng này.Người Mỹ dạy cho trẻ
các kỹ năng tự lập khi các cháu được 18 tháng tuổi, nghĩa là khi lẫm chẫm biết
đi, khi ngã các cháu phải tự đứng dậy, cô giáo và bố mẹ không vội vàng bế con
lên suýt xoa sợ con đau. Kỹ năng tự lập giúp trẻ hình thành thói quen độc lập
giải quyết sự việc nhờ thế các cháu sẽ có cảm giác thích thú, tự hào về sự
thành công, không phải chỉ lợi cho sự phát triển của trẻ mà còn giúp ích cho
chính những người lớn.
Kỹ năng tự lập giúp hình thành bản lĩnh đối phó với các thử thách trước thiên
nhiên và trong xã hội. Thiếu kỹ năng này con người trở nên yếu ớt, đối phó một
cách tiêu cực. Khi không làm chủ được bản thân, không biết là gì để chiến thắng
đối thủ, người ta sẽ tìm cách đối phó tiêu cực kiểu “chí phèo”. Có một chuyện
“ngụ ngôn hiện đại” kể rằng: “một người trồng được cây hóa quý, vừa có màu sắc
đẹp, vừa có hương thơm. Sau khi chiêm ngưỡng, người Mỹ về lập phòng thí nghiệm,
quyết lai tạo cho được giống hoa như vậy. Người Nhật mang lễ vật đến xin làm
học trò để học cách trồng hoa. Người Việt bĩu môi bảo, chẳng có hoa gì hơn được
hoa đồng tiền”.
4. Kỹ năng giao tiếp Dạy kỹ năng sống đương nhiên không tách rời kỹ năng giao tiếp, hành xử. Có nhận
xét tuy tiêu cực nhưng đúng với thực tế, rằng ngôn ngữ giao tiếp của người Việt
không có từ “xin lỗi”, “cảm ơn”. Những đưa bé phạm lỗi, khi buộc phải xin lỗi
thường nói lý nhí trong miệng, không muốn nói to, đó là bản năng tự nhiên. Còn
người lớn, khi ngăn một người lại để hỏi đường thường chẳng bao giờ nói đủ câu:
“xin lỗi, xin bác chỉ giùm lối đi đến…”. Dạy trẻ cách xin lỗi thì cũng phải kèm
theo hình thức động viên, chẳng hạn khi một trẻ xin lỗi thì cả lớp hoan hô, lúc
đó trẻ sẽ không thấy việc xin lỗi là một hình phạt, sẽ thấy xin lỗi là điều
bình thường.
Kỹ năng giao tiếp không
phải chỉ là “xin lỗi” và “cảm ơn” mà còn rất nhiều điều cần phải chú ý tuy
nhiên do khuôn khổ bài viết xin phép không đề cập đến. Để dạy trẻ kỹ năng tự lập từ lứa tuổi mầu giáo, nhà trẻ cần một đội ngũ giáo
viên được đào tạo hoàn chỉnh về tâm sinh lý trẻ em bên cạnh những kiến thức
chuyên môn, nghề nghiệp. Số liệu thống kê năm 2012 của Bộ GD&ĐT cho thấy
lứa tuổi nhà trẻ trường công lập là 347.320 cháu, ngoài công lập là 205.797
cháu, mẫu giáo công lập có 2.628.513 cháu, ngoài công lập có 691.815 cháu. Rõ
ràng là nhà nước chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục lứa tuổi này. Bỏ ngỏ
một giai đoạn giáo dục nhân cách quan trọng nhất sẽ là thảm họa cho cả quá
trình giáo dục, đào tạo sau này.
Ngô Thị Liễu (Theo http://nhatvietedu.vn/) |